Trên cuộc hành trình vô định,
con người không nhiều thì ít cũng mang theo bên mình một số hành trang : nào là
tín ngưỡng,phong tục, tập quán, quan điểm…Những thứ ấy lại trở thành một loại
TÀI SẢN TINH THẦN . Tài sản ấy nó gắn liền với sự sống còn của mỗi người đến
nỗi nó trở thành một thứ hành trang BẤT LY THÂN! Cái thứ hành trang ấy có khi
nó là vật nặng cả ngàn cân. Vậy mà hầu như con người chẳng chịu buông bỏ mà vẫn
cố gắng kéo lê nó theo cuộc sống của mình. Kéo lê, kéo lê mãi…cho đến SỨC CÙNG
LỰC TẬN !
Xin hãy bước
theo cuộc hành trình của người văn sĩ sau :
CHUYỆN NGƯỜI VĂN SĨ
Vùng nọ có một người lữ khách cô đơn không ai bầu bạn.
Suốt mấy mươi năm y rong ruổi từ vùng này qua vùng khác, không chủ ý, định
hướng gì rõ rệt. Đời sống và hoàn cảnh đổi thay như dòng nước chảy, tâm tư y
cũng thăng trầm nhiều nỗi, nhưng dần dần đọng lại một điều gì khó tả.
Một buổi sáng nọ, trên một hoang đảo đầy nắng, trong
cơn mơ tỉnh, dường như có ai kể cho y nghe một câu chuyện ngắn. Tỉnh dậy, y ghi
lại câu chuyện khó hiểu lên giấy. Như mạch nước được khơi, kể từ đó y bắt đầu
viết văn, tự cho mình đã trở thành văn sĩ.
Như những lần rong ruổi đường dài, y miên man trong
thế giới tư tưởng nhiều màu sắc, đầy tự do phóng khoáng. Truyện của y viết ra
như nỗi niềm ào ạt tự ý tuôn trào, không trau chuốt, không giải thích. Bởi vậy
không mấy ai hiểu và thích truyện của y. Y thầm nghĩ: “Ý tứ của ta đối với
người hiểu rồi thì hóa ra dư thừa, còn đối với người chưa hiểu lại là tối tăm,
hoang đường giả tạo; mi viết ra làm chi!”. Nhưng rồi y lại tự nhủ “Mọi sự trên
đời, từ nhận thức đến cảm giác, đối với người đời cũng đều như thế, hỡi tên văn
sĩ quèn, mi đừng thắc mắc”.
Yêu văn chương của y nhất lại chính là y. Viết được
một vài câu chuyện, y đóng thành một tập truyện. Rong ruổi trên đường, lúc nào
y cũng mang theo tập sách đó trong túi đeo vai. Những lúc nghỉ ngơi, y lấy tập
truyện đọc say mê như đọc lần đầu.
x
xxx
Đến một ngày, chàng văn sĩ thấy mình không còn ý tứ
viết truyện gì nữa. Tâm tư và quán sát nằm lac loài từng mảnh không sao kết hợp
được. Y giở tập truyện cũ ra đọc, cố tìm thử những bí quyết văn chương. Càng
đọc,y càng yêu văn mình, càng mong viết được những chuyện tương tự.
Ngày qua ngày, người văn sĩ càng già yếu. Y không viết
được câu chuyện nào nữa. Rong ruổi đường dài, Đã bắt đầu gối mỏi chân mòn, túi
vải đeo vai ngày càng nặng. Tâm tư chỉ còn văng vẳng những mẩu chuyện đã viết,
y buồn rầu tự nghĩ “Văn nghiệp của ta chỉ chừng ấy thôi ư?”. Bây giờ y không
còn đọc tập truyện, vì sau nhiều năm y đã thuộc long rồi.
Một ngày kia, trên bước đường phiêu bạt, người văn sĩ
già đến bên bờ một con sông nhỏ. Bên kia sông, cảnh vật xanh tươi, khác hẳn con
đường đất đỏ phía bên này. Người văn sĩ bây giờ đã già yếu cực độ, y đã vứt bỏ mọi
thứ trong túi đeo vai cho bớt nặng, chỉ còn giữ lại tập truyện. Y không còn sức
bơi qua sông, chỉ đi lần theo bờ. Bỗng thấy xa xa một chiếc cầu, y mừng rỡ đi
nhanh đến đầu cầu. vừa bước lên bực thềm, chân y run rẩy ngã sóng soài. Túi vải
đập lên ngực như một cú đấm trời giáng.
Người văn sĩ già đau đớn muốn gục. Y bỗng nổi cơn giận
dữ nhìn túi vải chỉ còn duy nhất tập truyện. “Ta đã cưu mang, sinh thành ra mi,
không lẽ bây giờ ta chết vì mi!”. Y lẩy bẩy mở túi vải, lôi tập truyện ra. Lạ
thay, tập truyện đã biến thành đá tảng tự bao giờ. Nhìn kỹ, thấy nét chữ trên
bìa còn sắc sảo, nhưng giấy đã biến thành đá, cân nặng chắc cũng cả trăm cân.
Người văn sĩ trân trối nhìn tập thạch thư, không hiểu mộng hay thực. “Thì ra ta
đã mang hòn đá tảng này hơn mười mấy năm qua. Ta đã già yếu không phải vì tuổi
tác mà chính vì sức nặng của mi”. Y dùng hết tàn lực đẩy tập thạch thư qua một
bên. Hòn đá rơi xuống chân cầu kêu một tiếng như tiếng kim loại chạm nhau. Vừa
nghe tiếng kêu, người văn sĩ thấy mình mạnh khỏe như hồi thiếu niên. Y nhẹ
nhàng bước qua cầu.
Vừa bước qua cầu, cảnh vật hoàn toàn khác hẳn. Ở đây
như có tiếng nhạc từ trên cao vọng xuống, đâu đây sực nức hương thơm. Khắp nơi
trái cây chin đầy, lấp lánh ngũ sắc.
Đi lần thêm một đoạn, bao nhiêu cung đài nguy nga
tráng lệ hiện ra, tầng tầng, lớp lớp. Người người ra vào mặt mày hoan hỉ, như
có thần thông, nói không nghe tiếng, đi không chạm đất.
Bỗng có tiếng ai đi tới. Người văn sĩ quay người lại
thấy một bà cụ, trên vai với đôi quang gánh. Nhìn kỹ, cụ bà gánh hai đâu hai
cái giỏ, bên trong song sánh nước. Y kinh ngạc thấy nước không chảy ra, còn cụ
bà thì đi đứng nhẹ nhàng như không. Biết gặp thần nhân, y vái lạy, hỏi:
-Phải chăng đây là nơi mà người ta gọi là niết bàn?
Cụ bà cười khanh khách:
-Đây chỉ là cảnh giới Tam thập tam thiên, một cõi cao
hơn cõi loài người một chút.
- Phải chăng các loài sống ở đây chính là chư Phật?
Cụ bà lắc đầu:
-
Các loài thọ sinh
ở đây phần lớn có hạnh nghiệp tốt đẹp, đặc biệt các hạnh nghiệp thuộc phạm vi ý
thức. Các giống Thanh văn, Duyên giác, các giới tu tiểu thừa hay thọ sinh ở
đây, trong cảnh giới sung mãn như vầy. Các loài này còn cách Phật hay Bồ tát
rất xa.
-
Nhưng có lẽ các
vị này cũng đã đắc đạo?
Cụ
bà cười lớn:
-
Hạnh nghiệp ý
thức của chúng thì tốt đẹp, nhưng có phải vì thế mà phá được chấp ngã, phá được
vô minh đâu. Ngươi không thấy các lâu đài nguy nga tráng lệ kia sao, đó chính
là nơi ẩn náu kiên cố của ý thức chúng, chúng bao giờ dám chịu rời xa, và vì
vậy không còn tiến bộ.
Người
văn sĩ ngập ngừng, cụ bà nói tiếp :
-Như có người dùng thuyền qua sông, khi
tới nơi, tiếc con thuyền, không chịu rời bỏ dòng sông, hoặc lên bờ tiếp tục vác
chiếc thuyền mà đi.
Nghe
tới đây, người văn sĩ rung mình, một cảm giác lạnh toát ập đến.
-
Cũng có người
nương theo ngón tay thấy mặt trăng. Cũng có kẻ được thọ sinh ở đây, không còn
thấy khổ đau, cho rằng đây là niết bàn, lại tiếp tục chịu cảnh sanh tử. Cũng có
loài tu được chút thần thông, thoát được vài trói buộc của thân, đã vội cho
rằng mình đắc đạo. Ôi, chấp trước của chúng sanh là vô cùng, vô tận.
Người Văn sĩ cúi đầu ngẫm nghĩ, cụ bà nói tiếp:
- Trong mọi thứ chấp thì ngã chấp là vi tế nhất, nó
đeo đuổi người học đạo tới mức cuối cùng. Nhớ rằng ngã không phải chỉ là thân
tâm mình, mà là toàn bộ nghiệp lực, kể cả đạo nghiệp. Ngã chấp và vô minh theo
nhau như hình với bóng, tràn đầy khắp nơi, ngay cả trong cõi Tam thập tam thiên
này.
Người văn sĩ ngẩng đầu nói :
Nhưng dù sao các loài sống ở đây vẫn dễ hiểu đạo hơn
loài người.
Cụ bà cả cười :
-
Không phải, kiếp người nhiều khổ đau, nhưng cũng vì thế mới dễ hiểu đạo. Lúc
người đang mê man vui thú đọc văn chương của chính mình và lúc tập Thạch thư
đau khổ rơi xuống bờ song, lúc nào ngươi dễ hiểu đạo hơn? Vì không thoát khỏi
sự rang buộc của chính văn chương ngươi, nên ngươi không còn sang tạo được gì
nữa.
Người
văn sĩ nghe xong, định nói điêu gì, bỗng có tiếng chân từ dưới bờ sông lên. Nhìn
kĩ thì đó là một nhà sư, dáng đi mạnh bạo. Nhà sư nhìn đôi quang gánh của bà
lão, cúi đầu vái chào, hỏi:
- Chẳng hay người có thấy hai vị đạo sĩ áo trắng tới
đây không?
Bà cụ đáp :
- Hai vị đó đã học xong đạo Tiên, và đã rời đây để trở
về chốn cũ.
Nhà sư bỗng nổi giận đùng đùng :
- Chúng cũng là kẻ tu hành sao có nhị tâm! Ta giao ước
với chúng cùng chung học đạo, thế mà chúng nỡ tâm lừa dối, bắt ta đợi mấy ngày
trên bến sông để chúng học lấy một mình.
- Từ Đạo Hạnh, ngươi và chúng có duyên nghiệp sâu xa.
Mọi sự đều có nhân duyên.
Nói xong, bà cụ ghé tai Từ Đạo Hạnh nói nhỏ điều gì,
rồi lẳng lặng gánh nước đi tiếp.
Từ Đạo Hạnh nghe xong quay quả bước đi, xem chừng lòng
còn giận dữ. Người văn sĩ ngơ ngác một giây xong bước theo nhà sư. Y thấy mình
đi như bay, phút chốc đã về chốn xưa.
Tới một cây nọ, bỗng Từ Đạo Hạnh lẩn vào gốc cây, xa
xa vừa có bóng người đi tới. Nhìn kĩ, đó là hai người đạo sĩ mặc áo trắng. Đợi
họ vừa tới gốc cây, Từ Đạo Hạnh quát lên một tiếng rất lớn, nghe như hổ gầm,
nhảy xổ ra:
- Minh Không, Giác Hải, các ngươi là kẻ hai lòng,
nhưng đi đâu cho thoát tay ta.
Hai người đạo sĩ giật mình rồi cười vang dội, người
tên Minh Không cất tiếng nói:
- Từ Đạo Hạnh, ngươi được Phật bà truyền cho phép thu
ngắn đường đi. Tưởng gì khác, chứ ngươi muốn làm hổ thì ngươi sẽ được làm hổ !
Người văn sĩ giật mình đánh thót, thì ra cụ bà chính
là Quán Thế Âm. Vừa nghe tiếng đấu phép, y chán ngán quay người bước đi, phút
chốc đã đến cây cầu cũ. Nhìn xuống bờ sông, thạch thư vẫn còn đó, rêu xanh đã
bám đầy. Y nhón một bước, đã tới nơi, vận lực nâng hòn đá lên. Nào ngờ thạch
thư bây giờ nhẹ như bông.
Y búng ngón tay, thạch thư biến thành tơ vàng, bay
đong đưa trong gió…
(Trích ĐÊM QUA SÂN TRƯỚC MỘT
CÀNH MAI
Của Nguyễn Tường Bách)